"Cảm ơn bạn đã đọc truyện tại Tân Mộng. Nếu thấy hay, bạn có thể ủng hộ editor bằng cách click vào link Shopee dưới đây. Việc ủng hộ là hoàn toàn tự nguyện. Xin cảm ơn!"
Trâm Cài Một Kiếp Tình
Chương 5
“Công bố kết quả kỳ thi hương rồi! Có bảng rồi!”
Nghe tiếng bọn trẻ con la to ngoài ngõ, ta vội vàng chạy ra chợ, nơi dán bảng kết quả.
Tấm giấy đỏ in chi chít tên, ta chỉ liếc mắt một cái đã thấy ba chữ lớn ngay đầu bảng: Tề Dịch Sâm.
Tim ta nhảy lên tận cổ, sung sướng không gì sánh bằng.
Thế nhưng, giữa lúc ta còn lâng lâng, mấy người đứng cạnh lại bàn tán khiến lòng ta chùng xuống.
“Tề Dịch Sâm đúng là tài năng! Nếu lên kinh thi tiếp, e là thi đỗ luôn cũng nên.”
“Đáng tiếc, lại dây dưa với kỹ nữ, sớm muộn cũng bị người đời chê cười.”
“Tôi nghe nói hắn giờ chỉ dạy tư thục, nghèo kiết xác, chẳng còn dáng vẻ công tử như xưa.”
Người thì tiếc nuối, kẻ lại giễu cợt. Những lời đó chui vào tai ta nghe mà khó chịu không sao tả được.
Ta xen vào:
“Thi đỗ hay không thì liên quan gì đến chuyện cưới vợ?”
Hai tên thư sinh thấy ta "không hiểu chuyện", bắt đầu giảng giải:
“Làm học trò thiên tử, phải trong sạch, nền nếp. Mà hắn lại ở cùng một kỹ nữ, như vậy làm sao được coi là thanh bạch?”
Ta hỏi tiếp:
“Nhưng ta nghe nói người đó đã thoát thân phận kỹ nữ rồi mà?”
Một tên cười nhạt:
“Cô nương ngây thơ quá! Thoát thân phận thì làm được gì? Dính tới kỹ nữ, dẫu có tài cũng không thể bước chân vào triều đình, truyền đến tai Hoàng thượng còn bị khép vào tội nặng.”
Người kia cười khẩy:
“Học trò phải trọng danh tiết. Dây dưa với kỹ nữ là tự hủy thanh danh!”
Ta cau mày, gặng hỏi:
“Vậy vì sao người đọc sách các anh lại ra vào lầu xanh nhiều nhất?”
Cả hai sững người, đỏ mặt tía tai:
“Chuyện đó… là chơi bời nhất thời thôi!”
Ta cười lạnh:
“Các anh thì ‘chơi bời’ là thanh bạch, còn Tề Dịch Sâm vì chuộc một người mà thiên hạ lại mắng là tự hủy? Đúng là đạo lý học từ sách cũng đổ hết vào bụng chó!”
Một tên bị chặn họng, giận quá giơ tay định đánh ta.
Chưa kịp vung tay, Tề Dịch Sâm đã xuất hiện, chắn trước mặt ta.
“Vị huynh đài đây, phu nhân ta đắc tội gì với huynh mà định ra tay?”
Chàng đứng chắn trước ta, giọng lạnh lùng, ánh mắt lạnh hơn cả gió đông.
Gã kia thấy chàng, càng lớn tiếng:
“Thì ra là vũ kỹ từ lầu xanh!”
Tề Dịch Sâm không tranh luận thêm, quay sang nhẹ nhàng hỏi ta có sao không, rồi giơ cái giỏ ra trước mặt ta, vẻ mặt đắc ý.
“Tối nay ăn cá!”
Nhìn con cá trong giỏ, lòng ta chua xót.
Người khác chen nhau đứng bảng tìm tên mình, còn chàng—không thèm liếc lấy một cái, chỉ kéo tay ta về nhà.
“Chàng không xem mình có đậu không sao?”
“Có nàng xem rồi mà?”
Ta bĩu môi:
“Nhưng chàng phải tự xem chứ! Đây là chuyện lớn! Chàng đứng đầu bảng kìa!”
Chàng bật cười:
“Có cũng được, không cũng không sao. Ta đâu định lên kinh.”
Tim ta khựng lại, chẳng lẽ… vì ta?
Thấy ta im lặng, chàng dịu giọng:
“Ta thấy hài lòng với việc dạy học, sống cùng nàng, nàng không chê ta nghèo là tốt rồi.”
Ta lắc đầu thật mạnh, lại gật đầu thật mạnh.
Chàng cười khẽ:
“Nếu nàng thấy ta nghèo, ta sẽ cố kiếm thêm tiền.”
Ta im lặng, lòng hơi se sắt.
Thấy ta buồn, chàng lại dở trò dỗ dành.
“Cuộc sống hiện giờ tuy đơn sơ, nhưng ta rất mãn nguyện. Có nàng, có Tiểu Thảo, vài năm nữa sinh thêm đứa nữa.”
“Xì, ai thèm sinh con cho chàng!”
Chàng giả vờ giận:
“Chưa đầy năm đã chán phu quân rồi sao?”
Ta đỏ mặt, chửi chàng mặt dày.
Chàng lại đặt tên con:
“Tên là Tề Mộ Trạch, trai gái đều hợp.”
Thấy ta ngơ ngác, chàng ghé tai thì thầm:
“Tề Dịch Sâm, ái mộ Vân Trạch.”
Ta đỏ mặt không nói nên lời.
Chàng cười, còn ta, ngập trong ngọt ngào.
Nhật nguyệt dần trôi, ngày tháng cũng có chút hy vọng để chờ mong.
Đúng như lời chàng từng nói, tuy cảnh nghèo thanh đạm, nhưng lòng ta lại an vui.
Đêm hôm ấy, ta đã sớm lên giường nghỉ ngơi, chàng lại nói ngày mai cần dùng đến mấy đoạn kinh thư, bảo ta cứ yên tâm ngủ trước.
Nhà chỉ một gian phòng nhỏ, ta nằm trên giường, trông bóng lưng chàng ngay dưới ánh nến vàng vọt, chẳng hiểu sao, lòng lại lặng yên, chẳng chút buồn ngủ.
Chàng sợ ta không yên giấc, chỉ thắp một đoạn nến ngắn, lưng quay về phía ta, nhưng ta vẫn thấy rõ ngón tay chàng lật giở từng trang sách.
Bóng lưng ấy cao mà thẳng, dáng người lại gầy, dưới lớp y phục rộng thùng thình lại càng thêm đơn bạc.
Ta nghĩ, Tề Dịch Sâm vốn mang chí học, mang tâm cầu công danh, bao năm đèn sách, lại ôm kỳ vọng của song thân đã khuất, tự nhiên chẳng thể buông bỏ.
Trên trấn, ai ai cũng nói chàng là nhân tài kiệt xuất, ví như cá chép vàng trong ao, chỉ đợi ngày hóa rồng mà thôi.
Thế nhưng kỳ thi ba năm một hồi, chàng lại chẳng mảy may chuẩn bị. Chẳng phải quá đỗi đáng tiếc hay sao?
Chàng nay tuổi mới mười bảy, lẽ nào định cả đời dạy học nơi thôn xóm hẻo lánh này?
Về sau, chàng từng nói với ta: đọc sách là để hiểu đạo lý, mở mang trí tuệ, dù không thi đỗ công danh, phụ mẫu nơi chín suối cũng sẽ không trách.
Ta nhìn chàng mà lòng đau xót. Ta từng dựa vào chàng như thể cả đời, lại quên mất rằng chàng cũng chỉ là một thiếu niên còn chưa tròn hai mươi.
Ta lặng lẽ bước xuống giường, nhẹ chân nhẹ tay vòng ra sau, khẽ ôm lấy chàng từ phía sau, má tựa vào tấm lưng ấm nóng ấy.
Chàng không dừng bút, mà lại bật cười khẽ:
“Ngốc quá, đã bảo cứ ngủ trước, ta viết xong rồi ngủ sau.”
Ta chẳng đáp lời, chỉ nhẹ dụi mặt vào lưng chàng.
Chàng như chẳng đành lòng, đặt bút xuống, gom gọn sách vở, xoay người lại, nhìn ta bằng ánh mắt ấm áp dịu dàng.
“Không học nữa sao? Ngày mai còn dạy học đó.”
Chàng khẽ gõ vào chóp mũi ta, giọng tràn ngập cưng chiều:
“Nương tử nhà ta thật là dính người, khiến ta chẳng cách gì rời được.”
Thấy ta đi chân trần trên đất, chàng nhíu mày, lập tức bế ta lên, vừa bế vừa trách:
“Đã nói bao nhiêu lần rồi, đừng để chân trần giẫm đất, cảm lạnh rồi lại đau bụng, chẳng phải khổ sao?”
Chàng đặt ta lên giường, đưa tay nắm lấy bàn chân lạnh buốt của ta, giọng pha chút giận:
“Lạnh thế này, muốn bệnh hay sao?”
Ta chu môi làm nũng:
“Biết rồi mà, biết rồi mà, thưa phu quân!”
Chàng bật cười, cong môi:
“Có thể dạy dỗ.”
Từ sau lần ấy, Tề Dịch Sâm suốt nửa tháng chẳng bước chân qua sân nhà.
Ban đầu ta còn trông ngóng, về sau thì chẳng còn hy vọng nữa, lòng cũng nguội lạnh.
Tiểu Thảo đeo cặp từ học đường trở về, vừa vào cửa đã nhỏ giọng hỏi:
“Nương ơi, thanh thiên đại lão gia không đến nữa thật sao?”
Ta nhìn vẻ mặt non nớt ấy, biết rõ dù con chưa từng gặp phụ thân, nhưng cốt nhục tương liên, trong lòng nó vẫn khát khao một bóng cha.
Lần đầu tiên, ta nghiêm túc nói với con:
“Cha con vất vả lắm mới có được tiền đồ, ta và con không thể làm gánh nặng cản bước người.”
Tiểu Thảo ngoan ngoãn gật đầu:
“Để đại lão gia sống cuộc đời tốt đẹp đi, sau này con lớn, kiếm thật nhiều tiền, đối tốt với nương.”
Ta ôm con vào lòng, nhẹ hỏi:
“Tiểu Thảo, con không muốn gọi người ấy là cha sao?”
Tiếng con nghèn nghẹn trong ngực ta:
“Không gọi thì người ấy cũng là cha. Nhưng con nghe bác hàng xóm bảo ông ấy giả dối, đạo đức giả... Con sợ nếu gọi, người ta lại nói lời khó nghe hơn nữa.”
Ta thở dài.
Khó trách chàng chẳng trở lại. Nhưng thôi, giữa chúng ta, rốt cuộc phải có một người sống khá hơn.
Tiểu Thảo ngước nhìn ta, ánh mắt như đúc từ khuôn mặt Tề Dịch Sâm, khiến lòng ta chùng xuống.
“Nương, vì sao người và thanh thiên đại lão gia lại chia lìa?”
Ta thoáng ngẩn người, ký ức lại chầm chậm ùa về, kéo ta trở về rất lâu, rất lâu trước kia…
Hôm ấy, ta mang theo năm mươi lượng bạc trở về, đặt lên bàn, nhìn thật kỹ hồi lâu.
Trong lòng đã sớm tính toán mọi điều, chỉ chờ chàng trở về.
“Vân Trạch à, hôm nay ta mua cá rồi, lát nữa chàng kho món cá chàng thích ăn nhất nhé.”
Thanh âm Tề Dịch Sâm ngoài cửa vang lên, nhẹ nhàng khoan khoái.
Ta thu bạc vào túi, ngoảnh lại mỉm cười:
“Được, chỉ là lần này nhớ đừng chưng cả mật đắng vào đó như lần đầu nữa đấy!”
Lần đầu chàng hấp cá, mùi vị vừa đắng vừa nhạt, vậy mà cả hai ta vẫn ăn đến sạch nồi, lòng đầy vui vẻ.
Về sau, Tề Dịch Sâm thường hay lân la hỏi lão thái bà hàng xóm cách nấu ăn, tay nghề cũng nhờ vậy mà dần khá lên, còn ta thì đến tận bây giờ vẫn vụng về như thuở ban đầu.
Nghĩ lại, lấy chàng làm chồng, thật là ta lời hơn chàng quá nhiều.
Chính vì thế... ta không thể để chàng mãi vì ta mà trì hoãn tiền đồ.
Dùng bữa cùng chàng, ta ăn ngon lành, ngẩng đầu hỏi bâng quơ:
“Này... chàng không thấy thiếp chẳng làm gì nên hồn sao?”
Tề Dịch Sâm vừa gỡ xương cá, vừa gắp vào bát ta, dịu dàng nói:
“Nếu được, ta ước gì cả đời nàng chẳng phải lo toan điều chi.”
Ta cắn một miếng, nghẹn ngào:
“Vậy chẳng phải thiếp là phế nhân rồi sao?”
“Bậy nào, nàng múa đẹp biết bao.”
Nghe nhắc đến múa, ta lập tức hứng thú:
“Nếu sau này thiếp mở học quán dạy các cô nương múa, chàng thấy sao?” Nhưng rồi lại ủ rũ:
“Chỉ e... chẳng ai muốn học từ một kỹ nữ như thiếp.”
Tề Dịch Sâm nhìn ta, mắt không rời, trịnh trọng đáp:
“Chuyện ấy thật tốt! Múa đâu phải điều xấu? Đợi ta kiếm đủ bạc, nhất định sẽ dựng một học quán cho nàng!”
“Thật ư?”
“Đương nhiên.”
Lời chàng như ngọn gió xuân thổi vào lòng ta, khiến tim ta ấm áp hẳn lên.
Một người như chàng, sao có thể bị chôn vùi nơi chốn nhỏ nhoi này?
Ta buông đũa, đi vào trong, lấy hành lý ra.
Tề Dịch Sâm vừa thấy, chân mày lập tức nhíu chặt, trong mắt đã hiểu rõ tâm ý của ta.
“Vân Trạch…”
Ta nhét hành lý vào tay chàng, cố ý cười cợt, vừa gắp đồ ăn vừa nói:
“Đi đi, đi thi đi.”
Tề Dịch Sâm kéo lấy tay áo ta, không dám tin:
“Ta đi rồi, nàng biết làm sao?”
Ta giật tay về:
“Không có chàng ta sống càng tốt! Ta thích chàng, nguyện cùng chàng chịu khổ, nhưng ta không muốn chịu khổ cả đời!”
Chàng cúi đầu, giọng khàn khàn:
“Ta sẽ cố gắng hơn…”
Ta cắt ngang:
“Chàng cố gắng có ích gì? Ngày ngày dạy học, bạc chẳng đủ mua lấy một chiếc trâm. Cuộc sống như thế, ta chịu đủ rồi!”
Tề Dịch Sâm im lặng, không đáp.
“Chàng nói chàng chuộc thân cho ta, nhưng ta đã sống được một ngày nào ra hồn chưa?”
“Chàng đi đi, đừng để ta liên lụy chàng. Cũng đừng oán giận ta!”
“Nói không chừng, sau khi chàng đỗ công danh, chúng ta còn có thể… còn nếu vẫn là cuộc sống này, thì sớm muộn ta cũng phải quay về Vân Nguyệt lâu.”
Chàng vẫn đứng đó, lặng im không nói lời nào, thân hình cứng đờ.
Ta giận dữ đẩy mạnh chàng ngã xuống, vứt hành lý đập vào người chàng, gào lên:
“Đi mau!”
Tề Dịch Sâm nhìn ta, gắng gượng nặn ra một nụ cười:
“Vân Trạch… ta có thể ăn hết bữa cơm này với nàng không?”
Sợ bản thân mềm lòng, ta nghiến răng, hất tung mâm cơm xuống đất, quay lưng về phía chàng, không dám nhìn.
Chàng không tức giận, chỉ lặng lẽ nói:
“Sớm biết vậy, ta đã mua thêm hai miếng bánh quế hoa rồi, để nàng đỡ đói.”
Ta vẫn im lặng, nhưng trong lòng hiểu rất rõ: nếu giữ chàng lại bên mình, chàng sẽ mãi chỉ là thầy đồ nhỏ ở trấn nghèo này, để thiên hạ chỉ trỏ. Chỉ có buông tay, mới mong chàng có thể tung cánh giữa trời cao đất rộng.
Khi ấy ta mới hiểu, yêu một người, không phải là giữ lấy họ, mà là vì tương lai của người đó mà tính toán, cho dù tương lai ấy... không có mình.
Tề Dịch Sâm từ từ đứng dậy, ôm lấy hành lý, gượng gạo cười:
“Vân Trạch, đây là điều thật lòng nàng mong muốn sao?”
Ta quay đi, không kiên nhẫn đáp:
“Phải! Chàng đi ngay đi, sống thế này ta chẳng chịu nổi nữa!”
Chàng khẽ đáp:
“Vân Trạch, vậy nàng... nhớ bảo trọng.”
Dứt lời, tiếng bước chân dần xa rời khỏi mái nhà nhỏ của hai ta.
Chàng đi rồi.
Nhưng ta biết, sự rời đi ấy, chẳng phải vì hết yêu, mà vì ta muốn chàng rời đi.
Cửa nhẹ khép lại, ta mới xoay người, ngồi thụp xuống, nhưng không dám khóc to.
Đêm ấy, ta những tưởng mình là người duy nhất đau lòng.
Nào hay, bên ngoài cánh cửa kia, Tề Dịch Sâm chẳng hề đi xa.
Chàng ngồi đó suốt đêm, dựa lưng vào cánh cửa, chỉ mong như vậy... có thể gần ta thêm một chút.
Trời vừa hửng sáng, chàng đặt một bức thư nơi ngưỡng cửa, rồi lặng lẽ rời khỏi huyện Trì Dương, bước chân không ngoái đầu.
Đêm ấy, ta chẳng thể chợp mắt.
Chỉ ngây ngẩn nằm trên giường, nhắm mắt lại là hình bóng Tề Dịch Sâm hiện lên trong tâm trí.
Chiếc giường vốn đã chật, nhưng đêm nay lại rộng thênh thang đến đáng sợ, chỉ là... vô cùng lạnh lẽo.
Nắng sớm rọi qua khung cửa, ánh lên khuôn mặt ta, ta mở mắt ra, bỗng cảm thấy một đêm dài như mấy thu trôi qua.
Tề Dịch Sâm đã đi rồi, nhưng cuộc sống vẫn phải tiếp tục.
Ta đẩy cửa ra, liền thấy một phong thư đặt nơi thềm.
Nét chữ quen thuộc, là bút tích của chàng. Dù ta chẳng giỏi thư pháp, nhưng nét bút của Tề Dịch Sâm, ta nhận ra ngay.
Mở thư ra xem, lời lẽ giản đơn, không mùi mẫn, không hứa hẹn trăm năm. Chỉ căn dặn ta phải giữ gìn sức khỏe, không nói ngày về, càng không mơ mộng non thề biển hẹn.
Ta gấp thư lại, thì vừa hay bà lão hàng xóm bước ra.
“Nương tử à, đêm qua phu quân của con để lại cho ta cái này, nhờ ta chăm sóc con chu đáo. Nhưng ta nghĩ tới nghĩ lui, bạc này... vẫn nên trả lại.”
Nói rồi, bà đưa ta một túi bạc.
Ta sững người. Hắn rời đi xa đến vậy, mà lại để lại hết bạc cho ta...
Nhìn túi bạc trong tay, ta bỗng không kiềm được nước mắt. Cả một đêm cố gắng nhẫn nhịn, giờ phút này, toàn bộ vỡ òa.
Bà lão vội an ủi:
“Tiểu nương tử, phu quân của con đối với con thật tốt, ai ai trong xóm cũng thấy rõ. Chẳng qua chỉ là đi thi thôi, năm rưỡi ba năm ắt trở về, đừng đau lòng như vậy.”
Ta gạt nước mắt, gượng cười:
“Vâng, con sẽ chờ chàng trở về.”
Năm mươi lượng đủ sống một năm, thêm phần tích góp của chàng lúc trước, cũng đủ giúp ta an ổn thêm một đoạn dài.
Thế nhưng chưa đến nửa tháng sau khi chàng rời đi, thân thể ta gầy đi trông thấy.
Ăn gì cũng nôn, cả ngày chỉ thấy buồn nôn khó chịu. Ta cứ tưởng mình vì tương tư mà thành bệnh, như trong những câu chuyện sướt mướt của lời kể.
Ai ngờ... lại bị bà lão nhắc nhở: có lẽ ta đã có thai rồi.
Ta mừng đến rơi nước mắt, nỗi buồn khi Tề Dịch Sâm rời đi cũng vơi bớt đi phần nào.
Vì tiết kiệm chi phí, ta trả lại căn phòng hai người từng ở, lấy lại được chút bạc, rồi chuyển về sống nơi Tử Liễu phường – nơi giá thuê rẻ hơn.
Ta tá túc ở Tử Liễu phường, mở một tiệm dạy vũ đạo nho nhỏ. Mà chẳng hay, nơi chân trời xa xôi kia, Tề Dịch Sâm lại sống chẳng yên ổn gì.
Chàng trên người chẳng có nhiều bạc, đi đường thì dừng nghỉ liên miên.
Lúc không có lộ phí, chàng lại viết thư cho người ta hoặc vẽ tranh để đổi chút tiền.
Phải nói rằng, chữ viết và tranh của chàng đều tinh xảo, có thể bán được giá cao. Thế nhưng chàng lại sống hết sức tằn tiện, chi tiêu khắt khe từng đồng.
Phần bạc chắt chiu được, chàng lại đi mua trâm cài đầu – đủ kiểu dáng, đủ loại chất liệu.
Chỉ cần nhìn những chiếc trâm, là lại nhớ đến dáng vẻ ta khi đeo nó.
Thế nhưng thiên tai bất trắc, đi đường vất vả, chẳng bao lâu chàng đã nhiễm bệnh.
Nằm mê man tại khách điếm, tiền vừa kiếm được còn chưa mua trâm, đã phải trả hết cho thầy thuốc.
Chàng nằm suốt một tháng, thân thể vốn đã gầy yếu, nay lại càng hao mòn hơn.
Vốn tính sẵn thời gian để đến kinh dự thi, vậy mà vì bệnh kéo dài, đã chậm trễ mất tháng ròng.
Bệnh còn chưa khỏi hẳn, chàng vẫn gắng gượng lên đường.
Đường xa mưa gió, cơ thể suy nhược, đến lúc tới kinh thành thì kỳ thi đã khai mạc.
Tề Dịch Sâm đứng ngoài trường thi, nhất thời chẳng biết nên đi đâu, về đâu.
Hồi hương? Vậy thì ta và chàng vẫn sẽ sống cuộc sống cũ, cơ cực như xưa.
Lưu lại kinh thành? Nhưng bạc trong người chẳng còn là bao...
Chàng mệt mỏi đến kiệt sức, mắt mờ chân chệnh, rồi ngã gục bên đường.
May thay, tiểu thư nhà Thượng Quan đi ngang qua, sai người đem chàng về phủ.
Thượng Quan lão gia quý trọng tài học của chàng, giữ lại phủ làm việc.
Mỗi tháng tiền công được lĩnh, chàng dành hai phần ba gửi về trấn nhỏ cho ta.
Dọn đến Tử Liễu phường chưa bao lâu, bụng ta đã nặng nề, bạc cũng hao hụt nhanh.
Gần đến ngày sinh nở, bà lão hàng xóm cũ tìm đến thăm.
Tuy bà chẳng thích Tử Liễu phường, nhưng thấy bụng ta lớn, vẫn dịu dàng khen ta có phúc khí.
Bà nói mình từng gặp nhiều thư sinh lên kinh dự thi, nhưng có người mấy năm chẳng thấy trở về, lại chẳng ai gửi tiền đều đặn như Tề Dịch Sâm cả.
Bà lấy ra một gói bạc, đặt vào tay ta:
“Đây, phu quân con đã gửi về nhà bà suốt bốn tháng rồi. Người ấy... vẫn luôn nghĩ đến mẹ con con.”
Ta sững người. Khoa cử đã kết thúc, vậy mà huyện Trì vẫn chưa có tên trúng tuyển. Ta hiểu Tề Dịch Sâm, nếu chưa đỗ, chàng tuyệt đối sẽ không về.
Nhưng... không ngờ chàng vẫn gửi bạc về đều như vậy.
Ta cầm lấy, nước mắt trào ra, khẽ xoa bụng thì thầm:
“Hài nhi, con xem, cha con luôn nghĩ đến mẹ con ta. Không biết sau này gặp con, chàng sẽ vui đến mức nào.”
Bà vội vàng lau nước mắt cho ta:
“Có thai rồi, không được khóc, ảnh hưởng thân thể!”
Ta gật đầu mạnh:
“Vâng, không khóc, ta không khóc nữa!”
Tiểu Thảo giọng non nớt hỏi:
“Nương, cha vẫn gửi bạc cho ta sao?”
“Đúng vậy, nếu chỉ trông vào tiệm vũ đạo của nương, thì mẹ con ta sớm phải ra đường xin cơm rồi.”
Tiểu Thảo hai mắt sáng rỡ, chẳng giấu được yêu quý người cha chưa từng gặp mặt.
Ta vươn vai, ngẩng đầu nhìn trời xanh ngoài sân.
Ký ức như thủy triều ùa về, lòng chợt nghẹn ngào.
“Đại lão gia đến rồi!”
Nghe tiếng Tiểu Thảo reo, ta lập tức cảnh giác, nhìn về phía người đang tiến đến.
Là Tề Dịch Sâm.
Nụ cười của chàng, giống hệt năm xưa ngày chuộc thân cho ta.
Chàng mặc bộ y phục ta từng may sáu năm trước, tay ôm một chiếc hộp lớn.
Dừng lại trước mặt ta.
“Ngươi còn đến làm gì?”
Ta lạnh nhạt lên tiếng, song Tề Dịch Sâm chẳng hề phật lòng, trông chàng vô cùng nhẹ nhõm.
“Vân Trạch, ta đã từ quan, hôm nay vừa giao ấn tín.”
Từ quan?
Ngươi vất vả thi đỗ, làm quan chưa bao lâu mà đã...
Ta kéo cổ áo chàng, giận dữ:
“Ngươi nói cái gì?”
“Dù là quan hay dân, ta đều xứng với nàng. Nếu nàng ngại bị người đời bàn tán, thì ta... chẳng cần làm quan nữa.”
Nghe xong, lòng ta mềm đi hơn nửa.
Chưa kịp thở, chàng lại nói tiếp:
“Gia sản ta giao cho nhị ca, vốn dĩ ta chẳng hứng thú với việc buôn bán. Hắn là kỳ tài thương nghiệp, giao cho hắn là đúng.”
Cái gì?! Ngay cả sản nghiệp cũng bỏ?
Thấy ta nổi giận, chàng đặt chiếc hộp lên bàn đá:
“Nhưng mỗi tháng ta vẫn có phân lời, tuyệt không để nàng và Mộ Trạch chịu khổ.”
Chàng đưa chiếc hộp cho ta:
“Nàng từng nói, thích trâm cài mà chẳng mua nổi. Vậy nên những năm qua, mỗi lần có bạc, ta đều mua một cây trâm, chắc có món nàng ưng ý.”
Ta mở hộp ra – bên trong là hàng chục cây trâm, kiểu dáng phong phú.
Có chiếc chế tác rất mộc mạc, bạc cũng chẳng sáng, nhìn là biết từng lúc chàng túng thiếu đến nhường nào, vậy mà vẫn nghĩ đến ta...
Ta muốn khóc, nhưng khóe miệng lại cong lên.
Quay lưng lại, nhẹ giọng nói:
“Ngốc tử, còn không mau cài cho ta.”
Chàng khẽ cười, chọn một cây trâm đơn giản, gắn chút vết trầy nhỏ – chắc đã được chàng nâng niu suốt chặng đường, rồi cài lên tóc ta.
Ta xoay người, lần đầu tiên sau sáu năm, nhìn chàng thật kỹ.
“Có đẹp không?”
“Đẹp lắm.”
Tề Dịch Sâm từ quan, khiến khắp huyện Trì bàn tán không ngớt.
Mỗi lần chàng dắt tay ta ra phố, người thì lén nhìn, người thì xì xào bàn tán, nhưng ta đã chẳng còn bận tâm nữa.
Chàng không làm quan, nhưng vẫn là đại cổ đông nhà họ Tề, bạc đầy túi, uy phong chẳng thua ai.
Yên Chi cười ta:
“Người ngốc có phúc của người ngốc.”
Tiểu Thảo bám lấy chàng như cái đuôi nhỏ, đi đâu cũng lẽo đẽo theo sau, miệng gọi “phụ thân” ngọt lịm.
Ta tức giận:
“Ta nuôi ngươi sáu năm, sao lại thân thiết với hắn như vậy hả?”
Mỗi lần ta nói thế, hai cha con lại quay sang nhìn ta cười.
“Ngươi còn dám nói ta không biết xấu hổ, đêm nào cũng ôm cha chặt như sợ người ta chạy mất!”
Ta đỏ mặt:
“Tiểu tử thúi! Ai cho ngươi rình ở cửa thế hả?!”
Tề Dịch Sâm chỉ cười, rồi nói với Tiểu Thảo:
“Mẹ con là nữ tử, con là nam tử, đàn ông thì phải nhường phụ nữ, chớ nên tranh giành với mẫu thân con.”
Tiểu Thảo gật đầu rất nghiêm túc:
“Nương yên tâm, con không giành phụ thân đâu, phụ thân là của nương!”
Tề Dịch Sâm bật cười, khen con ngoan.
Ta tức nghẹn:
“Ta... ta còn cần mặt mũi không chứ?!”
Nhiều năm trước, tại phủ Thượng Quan.
Thượng Quan Thanh Vũ nhìn bóng dáng cao gầy cô độc kia, chẳng nén nổi lòng, liền bước tới gần.
Nhưng Tề Dịch Sâm lại lùi một bước, ánh mắt trong trẻo như nước xuân:
“Thượng Quan cô nương, nam nữ thụ thụ bất thân, xin chớ thất lễ.”
Thanh Vũ cười nhẹ:
“Tề công tử, chàng cần gì phải khách sáo đến vậy?”
Tề Dịch Sâm lạnh nhạt:
“Ta có thê tử, lẽ nên giữ lễ, không phụ lòng người nhà, cũng chẳng tổn hại danh tiết cô nương.”
Nghe chàng nói vậy, nàng chẳng nản chí, nghiêng đầu nhìn bức họa:
“Chàng vẽ gì thế?”
Chàng lập tức cất tranh đi, không để nàng liếc mắt thêm một cái:
“Vẽ người trong lòng.”
“Chàng sắp thi rồi, với học vấn của chàng, nhất định đỗ cao.”
Tề Dịch Sâm nhẹ vuốt bức họa, ánh mắt dịu lại khi nghĩ đến ta:
“Nếu may mắn đỗ đạt, ta sẽ xin về huyện Trì, cùng nàng sống trọn đời. Vậy là đủ.”
Thanh Vũ không hiểu – nàng lớn lên trong khuôn phép lễ giáo, nghe mãi câu “nữ nhân lấy chồng làm trời”, nào ngờ hôm nay lại có người nói “nam tử nguyện vì thê mà lui về nơi hương hỏa”.
“Chàng không tiếc sao, từ bỏ chí lớn vì một nữ nhân?”
Chàng mỉm cười:
“Ta cả đời, cầu mong chỉ một mình nàng là đủ.”