Tích Nguyệt Bán
Chương 1
Tôi tên là Tích Nguyệt Bán, vì sinh đúng ngày rằm tháng bảy, nên người trong làng gọi là Nguyệt Bán.
Ngày ấy mẹ tôi khó sinh, vốn dĩ là một xác hai mạng.
Trong nhà oán khí nặng nề, xác hai mạng càng thêm hung.
Cha tôi lấy quan tài khâm liệm cả mẹ lẫn con, tạm thời đưa ra nghĩa trang ngoài làng.
Ai ngờ nửa đêm, tôi lại tự mình bò ra từ bụng mẹ.
Ông chú họ giữ nghĩa trang nửa đêm uống rượu, nghe thấy tiếng trẻ con khóc trong quan tài, sợ hãi đến tỉnh rượu, hô hoán mình gặp quỷ.
Ông vừa run vừa lắp bắp:
“Vợ của Văn lão Tứ à, ngươi không phải oan gia đòi mạng đấy chứ? Oan có đầu, nợ có chủ. Đừng hù dọa ta, ta sẽ đốt thêm giấy tiền cho ngươi…”
Thế nhưng, dù hương nến giấy tiền có đốt thêm bao nhiêu, tiếng khóc trẻ con lại càng lúc càng lớn. Ông chú trông nghĩa trang càng nghĩ càng thấy lạ.
Ông chú run run nghĩ: chẳng lẽ vợ lão Tứ chưa chế//t?
Vội vàng đẩy nắp quan tài, liền thấy tôi nằm giữa hai chân mẹ, đầy máu me, còn dính cả nhau thai.
Một nữ tử đã chế//t… lại sinh con!
Ông chú sợ đến hồn vía lên mây, cũng chẳng quản nữa, vội vàng cầm đèn lồng chạy về báo tin.
“Hỏng rồi! Văn lão Tứ, mau mở cửa! Vợ ngươi, vợ ngươi…sinh con rồi”
Trong nhà, tang sự đang bày biện, chuẩn bị đưa đám.
Nghe tiếng hô ngoài cửa, cả nhà đều hốt hoảng.
“Thuận Độ thúc, ông nói cái gì vậy? Vợ lão Tứ vừa mất ban ngày, chẳng phải ta vừa đưa quan tài ra nghĩa trang rồi sao? Ông say đến hồ đồ rồi à? Người chết sao có thể sinh con?”
Hơn nữa, nay lại đúng rằm tháng bảy, quỷ môn mở.
Mọi người càng tin rằng ngoài cửa là quỷ giả dạng.
Cha tôi run rẩy hỏi:
“Nếu thật là Thuận Độ thúc, ông chứng minh đi. Ông làm sao để ta tin ông không phải ma?”
Thuận Độ thúc tức giận mắng:
“Nói bậy! Năm bốn tuổi ngươi rơi xuống hố phân, chẳng phải chính ta đã kéo ngươi lên sao? Ngươi còn ăn luôn một ngụm phân, chuyện ấy ngươi quên rồi à? Lẽ nào ma cũng biết chuyện này?”
Nghe vậy, cha tôi mới tin, sắc mặt giãn ra, vội vã ra mở cửa.
“Thúc, vậy… vợ ta chưa chế//t sao?”
Ông chú khó xử đáp:
“Vợ ngươi vốn dĩ đã chế//t rồi, nhưng trong quan tài lại có đứa trẻ bò ra, khóc không ngớt, lại càng lúc càng yếu… Ta ban đầu cũng sợ, tưởng gặp ma, đập mở nắp quan tài thì thấy một đứa bé đỏ hỏn. Thật là quái sự ngàn năm có một.”
Cả làng nghe tin, ban đầu đều kinh hãi, sau lại tò mò, liền mang đèn lồng, đốt trúc, rủ nhau kéo ra nghĩa trang xem.
Khi mọi người đến nơi, tiếng khóc của tôi đã yếu ớt, thân mình dính máu, còn bò vào lòng mẹ.
Trong quan tài, tôi vẫn cố mút lấy bầu ngự//c lạnh cứng, đôi mắt mẹ thì trợn trừng, như chưa yên tâm, chế//t không nhắm mắt.
Bà nội vội vàng bế tôi lên:
“Quả thật là con bé sống rồi… Chúng ta cứ nghĩ nó theo mẹ nó đi rồi.”
Bà run run khép mắt mẹ lại, khóc:
“Thuý Nhi ơi, yên tâm đi, con bé này ta sẽ nuôi, con cứ thanh thản ra đi.”
Cha tôi cũng quỳ trước quan tài, dập đầu liên tục:
“Thuý Nhi, nàng lấy mạng đổi lấy con. Cả đời này ta sẽ nuôi nó khôn lớn, nửa đời còn lại không lấy vợ nữa. Nàng yên nghỉ nhé.”
Nói xong, đôi mắt mẹ tôi mới khép lại.
Đến lễ tang, trong đám người chen chúc, có một đạo sĩ họ Lý tiến lên, hỏi:
“Cho ta xem đứa trẻ, là nam hay nữ?”
Bà nội cắt rốn, dùng áo quấn lấy tôi, đáp:
“Là một bé gái.”
Đạo sĩ chau mày:
“Đứa trẻ sinh vào giờ ba khắc ngày rằm tháng bảy, bát tự toàn âm, lại là con gái, âm càng thêm âm.
Hơn nữa nó lại sinh trong quan tài, từ bụng người đã mất bò ra, dính phải tử khí, e rằng khó nuôi.
Nhất là đến tám tuổi, tất có một kiếp nạn.”
Cha tôi nghe vậy, lòng đau như cắt, vừa mất vợ, giờ lại nghe con gái khó sống quá tám tuổi, liền quỳ xuống dập đầu cầu xin:
“Đạo trưởng! Xin ngài cứu con gái tôi. Nó là mạng vợ tôi đổi lấy, nếu con có mệnh hệ gì, tôi còn mặt mũi nào gặp nàng dưới suối vàng?”
Đạo sĩ vuốt râu, khẽ gật:
“Ngươi đứng lên. Người sống ắt có cách cứu. Việc này, còn phải theo lời ta dặn…”
2
Cha tôi làm đủ lễ bảy ngày cho mẹ tôi, đưa bà xuống mồ an táng xong xuôi.
Lại đợi đến ngày đầy tháng của tôi, cha nhắm mắt bế tôi đi từ cổng làng ra, vừa đi vừa rải tiền giấy.
Đạo sĩ Lý căn dặn: “cha phải đi đủ trăm bước, đến khi mở mắt, thấy được thứ gì thì nhận đó làm cha đỡ đầu.”
Vạn vật đều có linh, mượn vận che chở, may ra con bé mới có thể bình an khôn lớn.
Đến ngày đầy tháng, cha theo lời dặn của đạo sĩ, ôm tôi ra cửa.
Mới đi chưa bao xa, mây đen đã kéo kín trời.
Gió núi thổi bay tiền giấy tứ tán, tiền giấy bay khắp nơi như đàn bướm trắng.
Nước bên đường cũng đột ngột dâng cao.
Mơ hồ còn nghe tiếng dân làng hô hoán:
“Sập rồi! Núi lở rồi! Mả cũ trên núi cũng bị đất đá vùi lấp rồi!”
Cha tôi lo lắng muốn mở mắt, nhưng nghĩ đến lời đạo sĩ dặn: phải đi đủ trăm bước, mở mắt mới tính.
Ông cắn răng, vẫn bế tôi bước tiếp.
Trong lòng vừa run vừa nghĩ, không biết lát nữa mở mắt ra sẽ thấy gì.
Có khi chỉ là một cây, một tảng đá, hay thậm chí chỉ là một con cóc…
Kết quả, vừa đúng trăm bước, tôi trong lòng cha lại bật cười khanh khách.
Cha tôi mở mắt, liền thấy một cỗ quan tài đỏ như máu, theo dòng sông trôi thẳng đến trước mặt.
Quái lạ thay, quan tài kia vốn đang trôi, bỗng dừng lại ngay trước chân ông.
Cha tôi ôm tôi, mồ hôi lạnh vã ra đầy trán, toan quay lưng bỏ chạy.
Nhưng nghĩ đến lời đạo sĩ căn dặn, mở mắt thấy gì thì bái đó làm cha đỡ đầu, lại nhớ tới lời hứa trước linh cữu vợ, ông đành cắn răng, bế con gái, dập đầu lạy cỗ quan tài đỏ kia.
“Trong quan tài kia, không rõ ngài là ai… Hôm nay gặp được, xem như con gái ta cùng ngài có duyên.
Con bé mệnh khổ, vừa sinh đã mất mẹ. Đạo sĩ nói phải nhận được cha mẹ đỡ đầu thì mới có cơ sống sót.
Xin ngài thương xót, cùng nó kết nghĩa cha nuôi con gái…”
Quan tài kia vốn bị núi lở cuốn xuống, chẳng rõ của ai, mộ phần nào.
Có lẽ là mả tổ lâu năm, nhưng cũng chẳng ai biết được thân phận.
Cha tôi đành liều một phen, nhận bừa.
Nào ngờ, lời vừa dứt, tờ giấy đỏ ghi bát tự của tôi liền bị gió cuốn, rơi thẳng vào trong quan tài.
Nắp quan tài khẽ trượt, từ bên trong, một nữ tử chậm rãi ngồi dậy.
Chỉ thấy nàng mặc hỷ phục đỏ tươi, đầu đội phượng quan châu ngọc, mặt trắng bệch như giấy, môi đỏ như máu, ngũ quan tinh xảo, nơi khóe môi lại mang nụ cười quỷ dị.
Đôi mắt nàng sáng lạnh, như ma quỷ, khiến hai chân cha tôi nhũn ra, mồ hôi ướt đẫm.
Chỉ nghe nàng cất giọng âm u:
“Đã là duyên, thì đứa trẻ này, ta nhận làm con gái nuôi.
Nó sinh ngày rằm tháng bảy, vậy gọi là Nguyệt Bán đi. Các ngươi nhớ cho kỹ.”
Cha tôi nhìn nữ tử trong quan tài ngồi dậy, suýt không tin nổi mắt mình.
“Ngươi… ngươi, ngươi… chẳng phải là ma sao?”
Nữ tử cong khóe môi, từ trong quan tài bay ra, lơ lửng trên cao nhìn xuống cha tôi.
Móng tay đỏ như máu, dài tựa lưỡi dao, dí sát vào khóe miệng ông.
“Cho dù ta là người… hay là ma… thì vốn dĩ cũng chẳng khác.”
Cha tôi sợ hãi, kêu cũng không kêu nổi, toàn thân như bị rót chì, hai tay run rẩy suýt không ôm nổi đứa bé.
Nữ tử đưa tay, đón lấy tôi từ trong ngực cha, ôm vào lòng.
Tôi vừa tròn đầy tháng, chẳng hề sợ hãi, ngược lại còn thích thú hơi thở quanh người nàng.
Miệng cười khanh khách, còn rúc vào ngự//c nàng tìm sữa.
Nữ tử cúi xuống, cưng nựng, chọc tôi bật cười.
“Con gái ngoan, nhưng mẹ nuôi đâu có sữa cho con. Chẳng qua… cũng không để con bé chịu đói.”
Nói đoạn, nàng tháo một viên dạ minh châu to bằng quả trứng gà từ phượng quan, đặt vào tay cha tôi.
“Cầm lấy. Đem đi mời cho con bé một vú nuôi tử tế.
Ngoan nào, Nguyệt Bán, chẳng mấy chốc con sẽ có sữa uống thôi.”
3
Nữ tử dặn cha tôi đem viên dạ minh châu vào thành bán lấy tiền.
Tôi nằm trong lòng nàng, cha tôi nào dám cãi, nhưng lại lo lắng, cau mày khổ sở nói:
“Ta… ta chỉ là nông dân hèn mọn, sao dám cầm vật quý như vậy? Nhỡ bị người ta hỏi, biết trả lời thế nào?”
Nữ tử đáp:
“Ngươi đi xuống huyện, bắt xe vào tỉnh thành, đến phố Bất Tường Vinh, tìm hiệu Trân Bảo Trai.
Người quản lý họ Bạch. Ngươi cứ hỏi, năm nghìn đồng dương.”
Lời nàng khiến cha tôi kinh hãi, lạnh buốt sống lưng.
Thời ấy, cả đời cũng khó mà tích nổi mấy chục đồng.
Làm sao biết đến khái niệm năm nghìn đồng dương!
Ông lắp bắp:
“Ta… ta… ta không dám…”
Nữ tử cười nhạt:
“Ngươi đã chẳng sợ ma, cớ gì lại sợ người sống?
Yên tâm, thứ này không hại ngươi. Ngươi chỉ cần đi là được.”
Cha tôi nửa tin nửa ngờ, nhưng vẫn nghe lời, cẩn thận mang theo viên dạ minh châu, run run xuống núi.
Quả là: ngọc lành mà ở kẻ hèn, ắt chuốc họa.
Cha tôi năm ấy mới hai mươi tuổi, ôm báu vật trong tay, từng bước run rẩy.
Ra khỏi làng, đi nhờ xe bò của thôn bên xuống huyện, rồi lại ba ngày ba đêm tàu hỏa, mới đến được tỉnh thành.
Lần đầu tiên trong đời vào thành, cái gì cũng thấy mới lạ.
Nhưng nghĩ tới việc còn cầm ngọc của nữ tử trong tay, ông chẳng dám chậm trễ, hỏi thăm đường, chạy thẳng đến Trân Bảo Trai.
Đó là tòa lầu cao sừng sững, bảng hiệu treo lơ lửng, chuyên buôn đồ cổ, thư họa.
Người quản lý họ Bạch, là phú hộ nhất tỉnh Nam, nghe nói tổ tiên từng là quan triều trước, thông thiên văn, am quẻ bói, ai nấy đều kính nể.
Cha tôi đứng ngoài báo danh, quản sự liếc ông từ đầu đến chân, nói vài câu cửa miệng, thấy ông ngơ ngác thì khinh bỉ, lộ rõ vẻ coi thường.
“Chàng trai, nghe danh Trân Bảo Trai mà đến, ngươi tưởng nơi đây dễ vào sao?
Có thứ gì đáng giá thì đưa ra, không thì cút đi.
Đừng có làm phiền.”
Nói rồi, còn sai người đuổi ông đi, vứt cho hai đồng tiền:
“Thấy ngươi đói lả, lấy tiền mà mua bánh bao, rồi về quê đi.”
Cha tôi trong người chỉ đủ lộ phí về, chẳng còn dư dả.
Nghe vậy, ông ứa nước mắt, nhặt lấy đồng tiền, nghẹn ngào:
“Thưa thúc, ta không lừa người. Quả thực có món đồ muốn bán cho quý hiệu.
Con gái ta mới đầy tháng, vừa sinh đã mất mẹ.
Nếu chuyện này không làm xong, mạng nó e rằng cũng chẳng còn…”
Dứt lời, ông kéo tay áo lên, lộ ra ánh sáng của viên ngọc giấu bên trong.
Quản sự lập tức trợn tròn mắt.
Cha tôi vội khẩn cầu:
“Xin thúc thương tình, cho ta gặp quản lý Bạch. Ta, Văn lão Tứ, kiếp này nguyện làm trâu ngựa báo đáp đại ân.”
Thấy ông thành khẩn, quản sự đành đồng ý bẩm báo.
Không lâu sau, Bạch quản lý xuất hiện.
Người chừng ba bốn mươi, áo tây, thắt cà vạt, tay cầm gậy, dáng vẻ như quý ông Tây dương.
Nhìn thấy viên dạ minh châu trong tay cha tôi, ông kinh ngạc, nắm chặt cổ tay hỏi:
“Ngọc này ngươi lấy từ đâu?”
Cha tôi bị ánh mắt ấy dọa run lẩy bẩy, lắp bắp:
“Nàng chỉ dặn ta mang đến tìm quản lý Bạch, hỏi ngài có thu hay không…”
Quản lý Bạch cau mày, nhìn chằm chằm hồi lâu, mới thở ra:
“Thu. Giá bao nhiêu?”
Cha tôi run rẩy, đưa năm ngón tay:
“Năm… năm nghìn đồng dương…”
Quản lý Bạch nhận lấy ngọc, soi kỹ dưới ánh sáng, rồi phất tay:
“Lý quản, ra phòng thu chi lấy năm nghìn giao cho hắn.”
Cha tôi suýt không tin nổi tai mình.
Năm nghìn đồng, cứ thế mà đưa!
Thấy ông còn ngẩn ngơ, quản lý Bạch mỉm cười, vỗ vai:
“Đồ này không tồi.
Lần sau nếu còn, cứ mang tới Trân Bảo Trai, tìm Lý quản là được.
Dù là thứ gì, ta cũng thu.”