Tề Trung Hương

Chương 4



12

 


Quả nhiên, chưa đến nửa năm, vào đầu đông khi vừa nông nhàn, tộc trưởng bắt được ba cặp nam nữ vụng trộm.

 

Thôn này xưa nay có một luật bất thành văn:

Gặp chuyện này, đàn bà phải thả diều, đàn ông phải bị cắt bỏ cái gây họa.

 

Mùa xuân năm nọ, khi thím góa Vương bị thả diều, em chồng bà ta cũng bị cắt.

 

Về sau cả thôn chửi hắn là đồ “không trứng”, đến đầu thu thì hắn nhảy sông tự tử.

 

Thôn Kháo Sơn đã dựng cổng tiết phụ trăm năm, tộc trưởng hành hình vô cùng nghiêm khắc, chẳng ai thoát được.

 

Cho nên, khi trận tuyết đầu tiên rơi, tộc trưởng dùng xác ba người đàn bà mất ruột, và “trứng” của ba người đàn ông để tế trời.

 

Đêm đó, tôi lại thấy cha đào cái ao hoa, rồi ném vào đó vài thứ…

Nếu đoán không sai, đó chính là ruột và “trứng”.

 

Sau chuyện này, mẹ bắt đầu thu dọn hành lý.

Mẹ gói ghém đồ đạc có giá trị, cất xuống hầm.

Tôi đoán chắc sắp rời khỏi nơi này.

 

Thoáng cái đã đến cuối năm.

Từ sau vụ ba mụ đàn bà bị thả diều, người trong thôn yên phận hơn hẳn.

 


Lại thêm mấy trận tuyết lớn, ai nấy đóng cửa, cơ hội nam nữ gần gũi cũng ít.

Thôn dường như yên tĩnh hơn.

 

Đêm ba mươi, cha mẹ lén thả ba chị em tôi ra ăn cơm tất niên.

 


Tiếng pháo nổ giòn giã, tôi hỏi mẹ: “Lâu rồi không thả diều nữa, khi nào nhà mình mới chuyển đi?”

 

Mẹ đút cho em Tư mấy miếng lòng đỏ trứng, khuôn mặt dưới ánh đèn lồng đỏ rực lên:

“Vội gì? Đợi đến mùa xuân, đợi lúc mèo kêu đã.”

 

Rồi cũng đến cuối xuân.

Phụ nữ trong thôn thay áo mỏng.

Cả thôn ngập trong mùi hương, mèo kêu còn dữ hơn mọi năm.

 

Cởi áo bông ra, những người phụ nữ đã dùng thuốc, ngực ai cũng căng tròn, eo lại nhỏ đi nhiều.

 


Ngay cả bà mụ gần bốn mươi tuổi, trước ngực cũng cao vút.

 

Cuối cùng, họ đã biến thành dáng vẻ mà trước đây họ từng căm ghét ở thím góa Vương.

Và kết cục của họ cũng giống hệt.

 

Ngày em Tư tập đi, tiếng mèo kêu vang vọng khắp nơi, tộc trưởng thả diều tám người.

 

Dân làng dường như đã chai lì với chuyện này.

Chỉ là vài mụ đàn bà thôi, chết thì cưới vợ khác.

Chẳng có gì to tát.

 

Phụ nữ càng ngày càng tươi tắn, nhưng đàn ông lại càng ngày càng mệt mỏi,

Hết đêm này sang đêm khác, chẳng ai chịu nổi.

 

 

Hình như chỉ sau một đêm.

“Mấy gã đàn ông từng ngủ với vợ tôi vì dùng “Tề Trung Hương” đều nằm lăn ra giường.”

 


Tộc trưởng gọi lang trung đến khám.

 

Tất cả đều chung một bệnh chứng – phòng sự quá độ.

 


Lang trung kê thuốc, dặn phải kiêng chuyện phòng the để tĩnh dưỡng.

 

Nhưng chưa được mấy hôm, trong làng đã có hai người chết.


Hai người đó đều là anh em của cha tôi, lúc chết mặt vàng như sáp, miệng há dở.

 

Trong đó có một gã trên trán còn có vết sẹo – chính là kẻ từng nói “cặp sinh đôi mùi vị rất ngon”.

 

Cha tôi đi xem xác họ, về liền cầm cuốc đào tung cả bồn hoa.

 

Ông moi ra hai cái chum, rồi nhân trời tối dẫn mấy mẹ con tôi vào núi.

 

Trong núi đã có hơn chục người chờ sẵn, tôi nhận ra, toàn là những người làm lâu năm trong hiệu thuốc của ông ngoại tôi.

 


Tôi cứ tưởng lập tức sẽ về quê, ai ngờ cha mẹ tôi lại chưa vội đi.

 

Không lâu sau, trên đường núi lại có hai người đẩy xốc một gã đàn ông về phía chúng tôi.

 

Tới gần mới thấy, đó là tộc trưởng.

Người hắn nồng nặc mùi khai – hóa ra sợ đến vãi cả ra quần.

 

Thấy ba chị em tôi đứng yên bên cha mẹ, hắn ban đầu hét lên một tiếng thất thanh, sau đó thần sắc hoảng hốt hỏi cha tôi:

 

“Cha của Lăng Nhỉ,  ba đứa con gái này vẫn còn sống à? Chúng ta… có phải có gì hiểu lầm không?”

 

Cha tôi đá hắn một cú.

Hắn “phịch” một tiếng quỳ ngay trước hai cái chum.

 


“Giữa tao với mày chẳng có hiểu lầm gì cả, chỉ là mày với hai cô cô của mày… có chút hiểu lầm thôi!”

 

Nhà ngoại tôi sống trong núi, tuy nghèo nhưng người nào cũng đẹp.

 


Mẹ tôi là chị cả, dưới còn một em trai và hai em gái.

Hai dì tôi là song sinh, kém mẹ tôi hơn mười tuổi.

Mẹ tôi coi hai dì như báu vật, chẳng ngờ họ vừa gả ra ngoài đã âm dương cách biệt.

 

Năm đó, hai dì được mối lái giới thiệu, cùng gả vào thôn Kháo Sơn này.

 


Người gả là chồng và em chồng sau này của mụ Vương Hàn phụ.

 


Nào ngờ đoàn rước dâu giữa đường bị sơn tặc chặn lại, đám đàn ông sợ chết vứt cả kiệu mà chạy, hai dì tôi bị sơn tặc bắt lên núi.

 

Dì tôi hết lời van nài, bọn sơn tặc có lẽ cũng không muốn gây chuyện lớn nên thả cả hai xuống núi.

 

Họ tự tìm đường vào thôn, nhưng dân làng khăng khăng nói họ đã bị sơn tặc làm nhục.

 

Lẽ ra có thể tìm bà đỡ để khám, nhưng họ cố tình không làm.

 

Đám đàn ông chưa từng thấy cặp song sinh, lại thèm khát nhan sắc của hai dì, bèn cùng chồng hai dì và tộc trưởng bàn bạc hồi lâu.

 

Cuối cùng, bọn cầm thú mỗi người móc mấy chục văn bù tiền sính lễ cho chồng dì, rồi ở từ đường thay nhau làm nhục họ.

 

Sau đó, chính tộc trưởng đã thả diều người cho họ.

 

Đàn bà trong làng ghen tị với nhan sắc của hai dì, lúc đó mụ Vương Hàn phụ còn chưa lấy chồng, lại thầm thương người mà dì tôi định gả, bèn cầm đá dẫn người khác ném cho nát bấy thi thể hai dì.

 

Ba ngày sau, hai dì không về nhà chồng, ông ngoại và cậu tôi không yên tâm, lần theo tìm tới thì phát hiện họ đã bị giày xéo đến không còn hình dạng.

 


Xương cốt bị vứt dưới cổng làng, tội ác của đám người kia vẫn nhởn nhơ.

 

Dân làng nói đã gả vào thôn thì là người trong thôn, mất trinh đều chết theo cách này.

 


Ông ngoại tôi cắn răng mang xác rách nát về, còn bị tộc trưởng tống tiền mới cho đem đi.

 

Về nhà không lâu, ông bà ngoại vì đau buồn mà lần lượt qua đời.

 

Năm đó, tôi mười một tuổi.

Dù sinh ba đứa con gái, cha mẹ tôi vẫn mặn nồng, mẹ tôi lại hiếu thuận với cha mẹ chồng, nên bên nội chẳng có lời oán trách.

 

Mẹ tôi đang tính sinh thêm, thì nghe tin hai dì và ông bà ngoại đều đã mất.

 


Mẹ tôi đau đớn đến đổ bệnh, cả nhà nhìn mà xót xa.


Về sau, ông nội tôi tìm đến, đưa cho cha mẹ tôi hai phương thuốc.

 


Một là “Tề Trung Hương” thật – loại kỹ nữ trong thanh lâu hay dùng, trong có xạ hương, khiến thân hình uyển chuyển lại tránh thai.

 


Một là loại trông y hệt, nhưng khiến kẻ dùng bị dục vọng ăn sâu vào xương tủy; đàn ông đàn bà cùng dùng, chưa đầy một năm đều chết.

 

Từ biệt ông nội, mẹ tôi gửi cậu út ở lại nhà ông ngoại, dẫn ba chị em tôi và hài cốt của hai dì đến ngôi làng này.

 


Họ chôn hai dì dưới bồn hoa, ngay trước cổng làng.

Mẹ cha tôi muốn để họ tận mắt nhìn đám súc sinh chết thế nào.

 

Mới đến, mẹ tôi chưa rõ ai là kẻ hại dì, nên cha tôi bắt đầu kết giao, ngày nào cũng uống rượu ăn thịt khoác lác.

Rượu vào ba tuần, bọn chúng nói năng không giữ mồm.

Chẳng bao lâu, cha tôi đã nắm rõ từng kẻ từng ức hiếp hai dì.



Tộc trưởng cuối cùng cũng hiểu cả nhà tôi tới là để đòi mạng.

 


Hắn quỳ rập đầu như giã tỏi, nói năm đó hắn không làm nhục hai dì.

 


Mẹ tôi xông lên tát hắn hai cái:

“ Ông là tộc trưởng, rõ ràng có thể gọi bà đỡ kiểm chứng hai em ta có trong sạch hay không, lại không làm. Chỉ vì ham tiền mà coi rẻ mạng người. Nếu không có ông i tiếp tay, ai dám ức hiếp họ?”

 

“Làng này gọi là Kháo Sơn thôn, nhưng rốt cuộc nó dựa vào ai mà sống?

Ông ăn mặc bảnh bao, nhưng cũng như cái cổng làng kia, từng chỗ đều khắc chữ hoang đường!”

 

Không ai nghe hắn biện minh nữa.

Bọn họ lột truồng hắn, cắt phăng hòn, rồi dùng kéo lôi ruột ra.

 


Sau đó treo ruột lên cành cây, đẩy hắn xuống vực.

Hắn thả diều người vô số lần, lần này cuối cùng cũng làm con diều.

 

Mùi máu tanh nồng nặc lan ra, kèm theo mùi hôi thối.

Chó sói trên núi đánh hơi được, tiếng tru dần lại gần.

 

Cha và các chú che chở chúng tôi xuống núi theo lối khác, lên xe ngựa.

Tôi xa dần cổng làng.

 

Khi không còn nhìn thấy nữa, tôi hỏi mẹ:

“Mẹ, vẫn còn nhiều người sống, chúng ta chưa báo thù xong phải không?”

 

Mẹ ôm tôi vào lòng:

“Tộc trưởng chết rồi sẽ có kẻ mới lên thay. Bọn đã dùng thuốc thì dục vọng đã ăn sâu vào xương tủy, kiểu gì cũng bị thả diều người… Hơn nữa, cho dù nhịn được, thuốc cũng sắp đủ một năm, mà dùng đủ một năm thì chẳng ai sống nổi.”

 

Mẹ tôi từng là người phụ nữ hiền lành, an phận, nuôi con dạy cái, hiếu kính cha mẹ chồng, đến con gà còn không dám giết.

 


Chỉ tiếc, đời này không cho mẹ tôi làm người phụ nữ hiền đức.

Bởi vì… thế gian này, ăn thịt người.

 

(HẾT)

Chương trước
Loading...