Mệnh Giao Long Phượng
Chương 1
Ngày trưởng tỷ chào đời, phủ tướng quân ngập tràn ánh đỏ rực rỡ, khói lành mây bay.
Từng đàn chim muông từ bốn phương tám hướng kéo về, lượn quanh chính sảnh.
Cảnh tượng lạ lùng khiến nửa thành kinh phải kinh động.
Ngay cả trong cung, hoàng đế cũng nghe được tin này.
Phụ thân vội mời thầy bói đến xem vận mệnh. Lão đạo sĩ áo vải vái lạy ba cái rồi nói:
“Tiểu thư là người có đại quý khí, tương lai phú quý vô song.”
Ánh mắt ông ta quét tới người ta, thì đột nhiên sầm mặt:
“Thiên đạo có nói: phúc họa tương sinh. Một nhà có người cực thịnh, át có người mang họa. Vị tiểu thư thứ xuất này, mang mệnh sát, khí số không lành, e rằng sẽ mang tai họa cho cả nhà...”
Sắc mặt phụ thân biến đổi. Ông ta lập tức hạ lệnh:
“Lôi nó ra hồ sau dìm c h ế t cho ta!”
Giữa trời đông lạnh cắt da cắt thịt, tiểu nương vừa mới sinh xong còn chưa kịp dưỡng sức, liền ôm bụng lao từ tiểu viện đến chính đường, quỳ sụp xuống ôm chặt chân phụ thân, khóc lóc van nài:
“Lão gia! Lời của thầy bói giang hồ sao có thể tin? Dù gì cũng là con gái ruột của ngài, ngài nỡ lòng nào xuống tay?”
“Vô lễ!” Phụ thân đã nhất tâm muốn lập công danh, sao cho phép có người nghi ngờ lời thầy?
“Đứa nhỏ này đã mang điềm xấu, không trách tội đã là nhân từ. Cút ra ngoài cho ta!”
Tiểu nương thông minh lanh trí, liền níu lấy vạt áo ông, nói:
“Lão gia, thầy nói một nhà có người hung, người cát, phúc họa tương sinh. Nếu không có ‘sao xấu’ là Nhị tiểu thư trấn giữ, liệu đại tiểu thư có còn giữ được mệnh phượng?”
Một câu trúng tim đen.
Phụ thân cân nhắc lợi – hại, rốt cuộc vung tay: “Tạm giữ lại.”
Thế là ta sống sót.
Ngày ấy chính là mùa đông, gió buốt tận xương. Tiểu thiếp áo mỏng đơn bạc, từ hôm ấy sinh bệnh mãi không khỏi.
Từ nhỏ ta đã biết, sự tồn tại duy nhất của mình là để giữ gìn vận số phú quý cho trưởng tỷ.
Tiểu nương ta vốn yêu thích thi thư, từ trước khi sinh ta đã lật sách đặt tên: “Tư Nguyệt” — nghĩa là "trăng thanh tao nhã, cao quý vô song".
Thế nhưng phu nhân vừa nhìn liền cướp lấy:
“‘Nguyệt’ là chữ sang quý, sao có thể để một con tiện nữ thứ xuất dùng? Phải để dành cho đại tiểu thư.”
Ta đành đổi tên thành “Quy Vãn”.
Tiểu nương ta cười an ủi: “Tên ấy nghĩa là hạnh phúc sẽ đến muộn một chút, nhưng rồi sẽ đến.”
Ta biết... bà chỉ muốn dỗ dành ta thôi.
Từ khi ta ra đời, phụ thân chưa từng liếc nhìn tiểu nương lấy một lần.
Người trong phủ cũng a dua, miệng lưỡi chua ngoa, chẳng ai ưa nổi mẹ con ta.
Chỉ có mẫu thân, ôn nhu xoa đầu ta, dịu dàng nói:
“Chỉ cần còn sống, thì luôn còn hy vọng. Rồi sẽ có ngày tốt đẹp.”
Ta gật đầu.
Năm ta năm tuổi, trưởng tỷ Tư Nguyệt mặc váy hồng bướm bay, ngồi trên xích đu tay cầm hộp điểm tâm xinh đẹp.
Ta chạy tới hỏi:
“Tỷ tỷ ơi, đó là gì vậy?”
“Là điểm tâm ngũ phúc trai đó, ngon lắm.”
Tư Nguyệt vừa nói vừa nhai phồng má.
Ta nuốt nước miếng, cẩn trọng hỏi:
“Cho muội một chút được không?”
Nàng chần chừ rồi đổ mấy vụn bánh vào tay ta.
Ta mút từng chút một, thơm ngát đầu lưỡi, trong lòng thấy vui vẻ vô cùng — cảm thấy tỷ tỷ thật tốt.
Ta cẩn thận giữ lấy vụn điểm tâm để mang về cho tiểu nương.
Nào ngờ tay bỗng bị đập mạnh, vụn bánh văng vào mắt — đau xót đến bật khóc.
Bên tai vang lên tiếng quát của Tiền quản sự:
“Thứ tiện nô hèn mọn, cũng dám mơ ăn đồ của đại tiểu thư?”
Phu nhân cũng giận dữ, dạy dỗ Tư Nguyệt một trận:
“Con là tiểu thư đích xuất, sao lại chung đụng với thứ nữ? Nó còn mang mệnh sát, đụng vào thì xui xẻo!”
Tư Nguyệt sợ đến run rẩy, khóc rưng rức, đảm bảo từ nay không đến gần ta nữa.
Phu nhân khi ấy mới dịu lại, xoa mặt nữ nhi âu yếm:
“Được rồi, đi chơi tiếp đi.”
Tư Nguyệt vừa ngồi lại xích đu thì dây đứt.
Chỉ bị ngã mông thôi, nhưng nàng khóc lóc còn to hơn cả ta.
Cả phủ quýnh lên, mời đại phu, cúng bái, vì sợ tiểu thư có mệnh hệ gì.
Ai cũng bảo là do ta – sao xấu – xung phải nàng.
Ta bị phu nhân tát hai cái, má trái sưng to.
Tiểu nương ôm ta khóc như lệ chảy thành sông, quỳ gối van xin phụ thân, ông mới đồng ý giảm nhẹ: phạt quỳ suốt đêm thay vì trượng hình.
Tối hôm đó, phu nhân lệnh đuổi mẹ con ta khỏi hương lan viện, bắt dọn vào góc Tây Bắc — căn nhà rách từng có bà vú già ở, giờ để trống.
Ngoài phòng dột nát, chỉ còn gian trong tạm dùng làm chỗ ngủ và phòng ăn.
Mỗi bữa ăn đạm bạc, tiền tiêu dùng bị cắt phân nửa, áo quần vá chằng vá đụp, năm này qua năm khác.
Phụ thân mời danh nho đến dạy trưởng tỷ học hành.
Còn ta, học được chữ đều là nhờ mẫu thân truyền dạy.
Tiểu nương vốn xuất thân thư hương, đoan trang thanh nhã, chỉ vì gia cảnh suy tàn, bị họ hàng lừa bán làm thiếp.
Bà luôn nói: “Nữ nhi càng cần phải biết chữ, mới không bị đời làm nhục.”
Cái bàn học của ta mối mọt đục thủng, lỗ chỗ gồ ghề.
Ta chê bàn không bằng phẳng, thà ra sân ngồi xổm luyện chữ trên phiến đá.
Tiểu nương mắng ta vô lễ, ta bĩu môi lý lẽ:
“Học vấn chẳng phân quý tiện. Cổ có người khoét tường mượn ánh sáng đọc sách, con ngồi trên đá viết chữ, mai này cũng có thể được ghi vào sử sách.”
Tiểu nương bị ta chọc cười.
Nụ cười ấy của bà thật đẹp — là thứ ta thích nhất.
Nhưng bà cũng nghiêm khắc.
Phụ thân thích đọc sách, sách đọc xong sẽ sai tiểu đồng đem bán. Ta thường lén nhặt về, tò mò mở ra thì toàn là tranh vẽ nam nữ dây dưa.
Ta hỏi: “Tiểu nương, đây là bí kíp võ công sao?”
Bà mặt tái xanh, xé nát sách rồi đánh ta một trận nhớ đời.
Những chuyện về nam nữ, bà chưa từng dạy ta.
Dù ta lớn dần, bà cũng luôn lảng tránh.
Ngay cả sách có nói sơ sơ chuyện gió trăng, bà cũng lấy mực đen bôi kín.
Sau này ta không muốn ngồi ngoài sân nữa, quay lại sửa sang chiếc bàn cũ: lấp lỗ, đục mài, khiến nó bằng phẳng sáng sủa.
Tiểu nương hỏi ta lấy gì nhét vào lỗ — ta chỉ cười lặng thinh, không dám nói là dùng hạt gạo trộn bùn.
Ai ngờ càng ngày lỗ càng to, gỗ mục chẳng chịu nổi nữa.
Ta vuốt mặt bàn mà nước mắt chảy dài không dứt.
Mười ba tuổi, ngày mùng hai tháng chạp, là lễ cập kê của trưởng tỷ.
Cũng chính là ngày sinh thần của ta.
Than củi trong phòng độc khí, ta quấn chăn mốc, nhìn tuyết rơi qua khe cửa.
Nghe có người gọi, ta tưởng phụ thân nhớ đến ngày sinh của ta, lòng khấp khởi hy vọng.
Nhưng khi đến nơi, mâm cơm đã vơi phân nửa, người người ăn uống vui vẻ, chẳng ai để ý ta.
Ta chỉ cầu xin được mang ít đồ thừa đi, chẳng dám mong cùng ngồi ăn.
Tư Nguyệt giờ đã yểu điệu mỹ miều, liếc ta một cái: “Đồ xui xẻo.”
Rồi quay mặt bỏ đi.
Phu nhân vờ như không thấy, quay sang phụ thân tươi cười:
“Nghe nói trong cung đã biết chuyện của Nguyệt nhi, liên tục cho người dò hỏi. Nguyệt nhi số mệnh cao sang, tuyệt đối không thể bị tai tinh quấy nhiễu.”
Phụ thân gật đầu tán đồng, rồi nhìn ta:
“Ngươi lớn rồi, nuôi mười mấy năm cũng đủ nhân nghĩa. Từ nay đừng liên lụy phủ nữa. Tối nay cút đi.”
Đêm ấy, ánh đèn ngoài cổng sáng rực.
Người trong phủ vì tiệc cập kê được thưởng tiền, tụ tập đánh bạc, đùa giỡn, chẳng ai để ý đến ta.
Ta ôm gói hành lý do tiểu nương may, lặng lẽ bước trên con đường hoang vắng.
Tuyết bay trắng xóa, đập vào mặt đau rát.
Từ đây, ta bắt đầu cuộc sống lưu lạc, không nơi nương tựa. Gầy gò, lam lũ, nhưng mệnh sát vẫn chẳng giảm phần nào.
Ta ở khu dân nghèo — mái nhà sập, bị đuổi.
Vào chùa — tượng Phật nhỏ rỉ máu, bị trụ trì quét chổi đuổi đi.
Làm nha hoàn — vừa quỳ lạy, phu nhân liền đau đầu phát bệnh.
Quản gia nhổ nước miếng vào mặt ta, mắng:
“Cút! Đồ sao chổi!”
Cuối cùng... một ông lão tiên phong đạo cốt tặng ta mấy con dê:
“Cô nương, bần đạo có căn nhà nhỏ trên núi. Biết chăn dê không?”
Ta vội đáp:
“Biết!”
Kỳ thật không biết. Nhưng vì muốn ở lại, ta liều nói vậy.
Ông lão để lại dê và nhà — rồi không bao giờ trở lại nữa.
Trên núi không người, chỉ có dê và chim bay qua.
Ta thường nghĩ, nếu sớm biết có nơi yên bình như thế này, có mẫu thân ở cùng ta, thì tốt biết bao...
Phải tốn hết sức lực, ta mới có thể kéo hắn về căn nhà nhỏ rách nát.
Dùng giẻ lau chùi sạch máu trên mặt, lại cẩn thận băng bó vết thương ở chân phải.
Hắn vừa tỉnh dậy liền ngó nghiêng bốn phía, rồi hít mạnh một hơi:
“Sao... sao có mùi phân dê thế này?”
Hôm kia có một con dê đột nhiên phát điên, lao vào cây mà chết. Ta đành cắn răng lột da, mổ thịt, giờ vẫn còn ít nước hầm.
Ta bưng bát canh thô lỗ đặt xuống bàn:
“Còn chê thì đừng hòng uống!”
Hắn trông chừng bằng tuổi ta, mặt mũi thanh tú, làn da trắng trẻo, thoạt nhìn đã biết không phải dân lam lũ — bị ta dọa một phen, lập tức ngoan ngoãn.
“Đa tạ cô nương cứu mạng, sao dám chê bai.”
Hắn lấy tay che miệng, khẽ ho vài tiếng, dáng vẻ bệnh nhược mảnh mai lại thêm chút... mê người.
“Ngươi còn yếu hơn cả ta.”
Ta múc canh đút cho hắn, ngồi xuống bên giường.
Hắn hét lên một tiếng, lúc ấy ta mới nhận ra mình vừa ngồi đúng... vết thương của hắn.
Miếng vải băng kỹ vừa rồi lại rỉ máu.
Ta nhíu mày:
“Xem ra phải bán hai con dê để lên trấn tìm đại phu rồi.”
“Đừng!”
Hắn vội níu tay áo ta, đôi mắt đào hoa lấp lánh ánh nước:
“Ta thấy cô chăm sóc cũng rất tốt rồi. Đừng bán dê.”
“Được thôi.”
Thật ra ta cũng không nỡ bán. Hắn nói vậy đúng ý ta. Ta hí hửng nháy mắt với hắn:
“Vậy ráng chịu đau một chút nhé!”
Hỏi về lai lịch, hắn đáp lấp lửng rằng gặp cướp trên núi, của cải bị cướp sạch.
Ta chẳng vạch trần, ngay cả tên hắn còn không chịu nói, thì ai tin mấy lời bịa ấy?
Sau đó, ta xuống núi bán da dê đổi lấy chút gạo thô, trên đường về thì phát hiện có nhóm hắc y nhân đang lùng sục quanh đây.
Tim ta đập loạn, lập tức men theo tiểu đạo trở về.
May mà về kịp — đám người kia xông vào nhà, chỉ thấy một thiếu nữ đang chăm chú thêu thùa.
Cô gái ấy sợ đến nỗi lấy tay che miệng, ta cũng giả vờ sợ hãi, níu lấy tay áo nàng:
“Tỷ tỷ, muội sợ...”
Đám người kia đá tung nồi niêu, chém cả vào đống rơm, sau khi lục tung một trận chẳng thu hoạch gì, mới chịu rút đi.
Ta quay sang nhìn “thiếu nữ” kia — da trắng môi hồng, váy áo vừa vặn, khéo còn xinh hơn nữ tử thật.
Ta ôm bụng cười lăn.
“Cười cái gì!”
Hắn quên đổi giọng, vẫn là thanh âm nữ nhi, khiến ta càng cười lớn.
“Khụ.” Hắn ho khan, quay về giọng nam, chỉ lên búi tóc mình:
“Cái thứ này... gỡ kiểu gì đây?”
Ta từ tốn tháo tóc giúp hắn. Hắn hỏi nhỏ:
“Ngươi không sợ ta là người xấu sao?”
“Nhìn mặt ngươi còn hiền hơn đám kia.”
Ta chỉ vào căn phòng tan hoang:
“Người xấu thật sự là chúng nó kìa.”